Những hào ứng nhau:
Xét về vị trí, mới hào trong nội quái ứng với một trong ngoại quái:
Hào 1 ứng với hào 4: Hào lẻ ứng với hào chẵn.
Hào 2 ứng với hào 5: Hào chẵn ứng với hào lẻ.
Hảo 3 ứng với hào 6: Hào lẻ ứng với hào chẵn.
Vậy dương vị ứng với âm vị, và ngược lại (1). Đó chỉ mới là một điều kiện. Còn phải một điểu kiện nữa thì mới gọi là tốt; hai hào phải khác nhau về bản thể, một là dương, một là âm thì mới “có tình” với nhau. Mới “tương cầu”, tương trợ lẫn nhau như hào 1 và 4 quẻ Tụng. Nếu hai hào vị tuy khác nhau (một chẵn một lẻ) mà thể giông nhau (cùng dương cả hoặc cùng âm cả) thì có khi kỵ nhau chứ không giúp nhau được gì như hào 2 và 5 quẻ Tụng. Nhưng cũng có khi ứng mà vô tình cũng tốt, như hào 1 và 4 quẻ Phong, tương thành chứ không tương địch.
Xét về vị trí, mới hào trong nội quái ứng với một trong ngoại quái:
Hào 1 ứng với hào 4: Hào lẻ ứng với hào chẵn.
Hào 2 ứng với hào 5: Hào chẵn ứng với hào lẻ.
Hảo 3 ứng với hào 6: Hào lẻ ứng với hào chẵn.
Vậy dương vị ứng với âm vị, và ngược lại (1). Đó chỉ mới là một điều kiện. Còn phải một điểu kiện nữa thì mới gọi là tốt; hai hào phải khác nhau về bản thể, một là dương, một là âm thì mới “có tình” với nhau. Mới “tương cầu”, tương trợ lẫn nhau như hào 1 và 4 quẻ Tụng. Nếu hai hào vị tuy khác nhau (một chẵn một lẻ) mà thể giông nhau (cùng dương cả hoặc cùng âm cả) thì có khi kỵ nhau chứ không giúp nhau được gì như hào 2 và 5 quẻ Tụng. Nhưng cũng có khi ứng mà vô tình cũng tốt, như hào 1 và 4 quẻ Phong, tương thành chứ không tương địch.
Trong ba cặp tương ứng 1-4, 2-5, 3-6 thì:
Cặp 2-5 quan trọng nhất, hai hào đều đắc trung cả mà hào 5 ở vào địa vị cao nhất. Nếu hào 5 là âm (nhu), hào 2 là dương (cương) thì tốt, vì hào 5 là người trên (vua, cha, chồng) mà nhu, biết khiêm tôn, khuất kỉ, tín nhiệm người dưới (như Tề Hoàn Công chịu nghe lòi Quản Trọng); còn hào 2 là người dưới (bề tôi, con, vợ) cương trực nhưng lễ độ, biết giúp đỡ khuyên răn người trên. Đó trường hợp các quẻ 4, 7, 11, 14,18… (coi phần dịch ở sau).
Nếu ngược lại hào 5 là dương (cương), hào 2 là âm (nhu) thì kém tốt, vì người trên tự tin quá, còn người dưới thì nhu thuận quá, không dám khuyên can người trên.
Đó là trường hợp quẻ 39 (Thủy Sơn Kiến), quẻ 63 (Thủy Hỏa Kí Tê).
Xét chung thì như vậy, nhưng tốt hay xấu còn phải tùy ỷ nghĩa của toàn quẻ mà đoán:
– Cặp 1-4 không quan trọng mấy, nhưng vẫn thường được xét. Nếu hào 4 là âm, hào 1 là dương thì ý nghĩa khá tốt; lý do cũng như trường hợp hào 5 là âm, hào 2 là dương.
Ngược lại, nếu 4 là dương, 1 là âm thì kém: cả hai đều bất chính.
– Cặp 3-6 rất ít khi được xét tối. Vì lẽ hào 6 đã tới thời suy, cần phải rút lui, không cần người giúp nữa, mà người dưới- hào 3- ở vào một địa vị mập mờ, không chính đáng (cuối quẻ mà chưa lên được quẻ ngoại), muốn giúp hào 6 thì phải qua mặt hào 5-đương cầm quyền trong quẻ-như vậy sợ bị tội.
Trong một quẻ nào có một hào làm chủ cả quẻ thì không xét những cặp ứng nhau theo những quy tắc kể trên, mà có theo ý nghĩa toàn quẻ thôi.
Từ khóa tìm kiếm nhiều: phong thủy hướng nhà, chon
huong nha