Cung dương trạch:
Còn gọi là cung Du Niên: Du: chuyên chở, đem đến. Niên: năm, mùa gặt, kết quả.
Trong mới bát quái đồ cũng cố 8 cung du niên đóng trên vị trí các cung phương hướng nhưng cung du niên lúc nào cũng dịch chuyển vòng theo hình bát quái ta sẽ căn cứ vào đó để lý giải, khi có sự phối hợp giữa cung.
Chọn hướng làm nhà hợp với tuổi
Ngũ quỷ và giao chiên vẫn là một nghĩa, 4 cung kia cũng vậy. Nhưng nếu phân biệt hơn nếu xem vào phương hướng tạo tác thì gọi: Ngũ quỷ, Diên niên, Lục sát, Họa hại và phục vị. Còn xem về hôn nhân thì gọi: Giao chiến, Phước đức, Du hồn, Tuyệt mạng và Qui hồn. 3 du niên còn lại vẫn dùng chung không thay đổi là: Sanh khí, Thiên y và Tuyệt mạng.
8 du niên trên đây đểu dịch chuyển tùy theo cung mạch trạch của chủ nhà, do đó không có sự ấn định phương hướng nào, là của Du niên đang đóng.
Ví dụ: Du niên sinh khí.
Nếu chủ nhà mạng kiển thì sinh khí đóng tại hướng Đoài (chánh Tây).
Nếu chủ nhà mạng Khảm thì sinh khí đóng tại hướng (Đông Nam).
Cứ như vậy 8 cung mạng của chủ nhà thì cung sinh chí đều đổi vị trí có 8 hướng khác nhau.
Trong bốh hướng tốt trở cửa cái về hướng nào cũng được, nhưng thuận lợi hơn hết là được hướng phục vì.
Còn bốn hướng xấu hoặc làm cầu tiếu, nhà tắm, hay chuởng nuôi súc vật v.v…
Nếu ngôi nhà đã làm rồi mà không biết phương hướng thì bây giờ ta sẽ lấy tuổi của chủ ngôi nhà, rồi đem la bàn ra đặt thử nếu đã làm cầu tiêu hoặc chuồng súc vật, nhằm phương hướng tốt và vẫn cứ giữ đường đi vô nhà bên tay mặt của chủ nhà (nghĩa là chủ nhà đứng trước cửa cái ngó về phía tay mặt của chủ nhà mà làm đường đi).
Đông Tây trạch trù mạng:
Năm cho tựa đề trên là nói gồm: Đông tứ trạch, Tây tứ trạch, Đông trù, Tây trù, Đông mạng và Tây mạng. Trạch là nhà. Trù là táo, bếp. Mạng là mạng cung của chủ nhà tính theo tam nguyên.